Khi hầu hết các công ty dựa vào vay từ các ngân hàng thương mại, nền kinh tế bị chi phối bởi hệ thống ngân hàng. Các khoản vay ngân hàng chiếm khoảng 100% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam.
Bên cạnh hoạt động cho vay truyền thống, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng bắt đầu đầu tư vào lĩnh vực trái phiếu trong những năm gần đây. Trái phiếu để phân biệt rủi ro và tăng thu nhập.
Đầu tư vào trái phiếu ở Việt Nam luôn được coi là một hoạt động an toàn, nhưng trên thực tế, đầu tư vào trái phiếu tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro. Rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất Rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro cơ bản của chứng khoán nợ. Rủi ro tín dụng có thể được chia thành:
rủi ro vỡ nợ hoặc rủi ro vỡ nợ (vỡ nợ)
rủi ro tăng chênh lệch tín dụng (credit spread)
rủi ro hạ bậc xếp hạng tín dụng. Rủi ro lãi suất là do lãi suất thị trường. Rủi ro thị trường do những thay đổi gây ra. Về cơ bản, lãi suất có hướng ngược lại với giá chứng khoán nợ.
Rủi ro trả trước
Rủi ro thanh toán nhanh
Rủi ro tái đầu tư
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro biến động giá phải và trái phiếu liên quan đến chứng khoán nợ
Rủi ro biến động tỷ giá hối đoái- — Rủi ro dư luận
Phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài
Theo các tổ chức phát hành khác nhau, chứng khoán nợ được chia thành 5 loại:
Chứng khoán do con nợ phát hành: Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu kho bạc và Tín phiếu kho bạc. Chứng khoán nợ được phát hành bởi các cơ quan chính phủ và chính quyền địa phương.
Chứng khoán nợ được phát hành bởi công ty.
Chứng khoán nợ được phát hành thông qua chứng khoán hóa. -Tiền sản phẩm thị trường.
Tại Việt Nam, hiện không có chứng khoán nợ nào phát sinh từ giao dịch chứng khoán hóa. Sản phẩm trên thị trường chủ yếu là chứng khoán nợ do chính phủ phát hành và chứng khoán nợ do các cơ quan chính phủ và chính quyền địa phương phát hành (Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương tiên phong phát hành trái phiếu địa phương. Các ngân hàng phát triển và các chính trị gia thường phát hành trái phiếu vốn được Chính phủ bảo lãnh). Ngoài ra, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng tăng trưởng, đặc biệt là từ năm 2011. Theo thống kê, thị trường trái phiếu do các tổ chức tín dụng sở hữu 90% và các công ty bảo hiểm sở hữu 8%, tỷ trọng nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài tương đối thấp (tổng nợ 5-6%), không có nhà đầu tư nào khác (quỹ hưu trí, quỹ đầu tư …). Nguồn cầu chủ yếu tập trung vào trái phiếu kỳ hạn ngắn.
Một số đặc điểm về hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Do thiếu xếp hạng tín dụng của tổ chức, đường cong lãi suất chuẩn và khuôn khổ pháp lý lỏng lẻo nên hầu hết các ngân hàng thương mại không có kế hoạch đầu tư vào trái phiếu (không có dự trữ, nhưng số lượng nhỏ). Khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp gần như bỏ trống. Theo quy định hiện hành, nếu công ty trái phiếu không có khả năng trả nợ kể cả sau sáu tháng trở lên thì ngân hàng thương mại nên có kế hoạch thu xếp khi xem xét các khoản phải thu. (Nếu nó vẫn được phân loại là đầu tư, bạn có thể xóa dự trữ, vì theo quy định hiện hành, chúng tôi không thể tìm thấy dữ liệu giao dịch của ba công ty chứng khoán lớn.)
Ngân hàng thương mại trái phiếu chính phủ vẫn coi nợ quốc gia là rất an toàn Đầu tư Theo Thông tư số 13/19, đầu tư trái phiếu được thực hiện để dự trữ thanh khoản. Nhưng thực tế không phải vậy, nếu lãi suất biến động, đầu tư vào trái phiếu chính phủ vẫn có thể bị lỗ (năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài từng cắt lỗ. Chính phủ Việt Nam đã biểu quyết). Mặc dù trái phiếu chính phủ có tính thanh khoản cao nhưng chúng cũng có thể thiếu tính thanh khoản trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ, khi lãi suất tiếp tục tăng, trái phiếu dài hạn mang theo rủi ro và sẽ khó chuyển nhượng hoặc chiết khấu mạnh.
Diễn biến mới nhất của thị trường trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng thương mại có thể chuyển lợi nhuận của họ cho ngân hàng thông qua hoạt động kinh doanh trái phiếu (lợi nhuận thường tạo ra một khoản chênh lệch rất lớn). Để tránh bao gồm thuế hoặc lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường thực hiện giao dịch trái phiếu trực tiếp và thực hiện giao dịch mua lại thông qua sân sau của họ cho đến khi giao dịch kết thúc.
Trước đây, tín phiếu công ty trái phiếu không được bao gồm trong số dư của người cho vay. Do đó, chúng thường được các ngân hàng thương mại sử dụng để lách các khoản vay mà không cần phải thực hiện như vậySẵn sàng. Năm ngoái, chứng khoán đầu tư của 37 ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo tài chính, tăng 9,7%.
Theo quy định hiện hành, hợp đồng thuê nhà 50 năm không được thế chấp. Trong số các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại thường trốn tránh sự giám sát bằng cách mua 50 trái phiếu doanh nghiệp. Dự án cho thuê đất một năm Các ngân hàng thương mại thường chỉ cấp vốn cho các đối tác. Tuy nhiên, khó có thể vay trực tiếp từ các ngân hàng thương mại thông qua công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, tổ chức tín dụng khác … Cách làm là uỷ thác cho ngân hàng thương mại (hoặc tiền gửi, cho vay liên ngân hàng) cho ngân hàng thương mại B, công ty tài chính, chứng khoán. Các công ty con, sau đó các trung gian này sẽ mua các trái phiếu mục tiêu do Ngân hàng Thương mại A. Thường có ba loại trái phiếu được phát hành bởi các công ty: trái phiếu có bảo đảm, trái phiếu không có bảo đảm và trái phiếu có bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại lớn (ở miền Nam Việt Nam, thường chỉ có các ngân hàng thương mại đại chúng đứng ra bảo lãnh và các tổ chức khác đồng ý mua trái phiếu doanh nghiệp). Ngoại trừ trường hợp có quan hệ với các ngân hàng thương mại, không phải hầu hết các công ty đều phải có tài sản thế chấp từ các ngân hàng thương mại lớn nếu họ không có tài sản thế chấp khi phát hành trái phiếu. Khoản bảo lãnh không có trên bảng cân đối kế toán.
Do đó, chúng tôi nhận thấy hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại còn khá nhiều kỹ năng và chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, nếu thị trường trái phiếu tiêu chuẩn không được thiết lập, khi quy mô của hoạt động này ngày càng mở rộng, rủi ro thanh khoản của hoạt động đầu tư trái phiếu trong hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tăng lên trong tương lai.
Theo TTVN