Nếu bạn “hợp nhất” tất cả các công ty niêm yết thành một công ty, thì số liệu tài chính cho thấy hiệu quả kinh doanh của công ty như thế nào?

Việc đánh giá được thực hiện bằng cách bổ sung dữ liệu tài chính của các công ty niêm yết trên HOSE và HNX, không bao gồm các hoạt động cụ thể như ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. So sánh hàng năm không loại trừ ảnh hưởng của các công ty mới niêm yết. Đơn vị dữ liệu là tỷ đồng.

Qua phân tích các dữ liệu này, chúng ta có thể thấy rõ tình hình hoạt động kinh doanh hiện tại của các công ty Việt Nam.

Trong trường hợp doanh số sụt giảm mạnh, khó có thể đạt được mức của năm 2011. Môi trường kinh doanh khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty.

Sau khi tăng trưởng ổn định từ 2007 đến 2011, 9 tháng của Tốc độ tăng doanh thu đạt gần 469 nghìn tỷ đồng, giảm 14% so với cùng kỳ. Có thể thấy, trong các quý còn lại, doanh thu năm 2012 khó có thể đạt được như năm 2011, và có thể chỉ tăng nhẹ so với năm 2009.

Tỷ suất lợi nhuận gộp cũng giảm mạnh, đạt 73,5 nghìn tỷ đồng, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2011. Tỷ suất lợi nhuận gộp giảm nhanh hơn so với doanh thu chính. Do giá nguyên liệu gần đây tăng mạnh nên giá sản xuất vẫn chưa được cải thiện.

Tỷ suất lợi nhuận gộp / doanh thu có thể giảm từ 17,5% năm 2009 xuống 7% trong 15 tháng trong 9 tháng .—— Lợi nhuận đã giảm trong hai năm liên tiếp. Năm 2011, mặc dù doanh thu và biên lợi nhuận gộp tiếp tục tăng nhưng lợi nhuận giảm 14%, chủ yếu do chi phí lãi vay tăng cao.

Trong 9 tháng, cả doanh thu và tỷ suất lợi nhuận gộp đều giảm. Tiếp tục thua lỗ nặng. Chi phí lãi vay tăng cũng là nguyên nhân gây ra tác động tiêu cực đáng kể.

Các khoản phải thu: số tiền tuyệt đối giảm nhưng lại tăng lên so với tổng tài sản. So với cuối năm 2011, các khoản phải thu giảm còn 89,6 nghìn tỷ đồng trong 9 tháng. Ngoài việc tích cực thu nợ, lý do cũng có thể là thu nhập thấp và các điều kiện khó khăn khiến công ty không thể cấp tín dụng.

Tuy nhiên, tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng tài sản tiếp tục tăng từ 12,7% năm 2011 lên 13,4% năm 2011. 9 tháng .

Hàng tồn kho có giảm nhẹ nhưng vòng quay chậm cho thấy khó khăn. So với con số 135,2 nghìn tỷ đồng cuối năm 2011, khoản mục hàng tồn kho cuối quý III cũng giảm đáng kể.

So với tổng tài sản, hàng tồn kho chỉ chiếm 20,2% tổng tài sản, tức là giảm. Năm 2011, nó vẫn là 21,7%.

Mặc dù vậy, tốc độ luân chuyển hàng tồn kho dường như đã chậm lại trong những năm qua. Điều này cho thấy tình hình kinh doanh ngày càng khó khăn.

Tiền mặt giảm và đầu tư tài chính “chán”. Tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính đã giảm xuống còn gần hai năm và rất mạnh so với cuối năm 2011.

Mặc dù khoản đầu tư tài chính đã được rút ra nhưng công ty vẫn không thể cải thiện được lượng tiền mặt của mình. — Trong các trường hợp sau, tích cực trả nợ vay (xu hướng xóa nợ) lãi suất tăng. Nợ lãi vay ngắn hạn và dài hạn giảm mạnh gần 90 nghìn tỷ đồng, từ 294 nghìn tỷ đồng cuối năm 2011 xuống còn 207 tỷ đồng cuối quý III. Mức nợ cũng bằng năm 2009.

Công ty có lãi. Chỉ trong 9 tháng, chi phí lãi vay của công ty đã tăng lên 21 nghìn tỷ đồng, gần bằng năm 2011 và gấp 3 lần năm 2009. Năm 2009 là năm hỗ trợ lãi vay. Khi tỷ suất lợi nhuận gộp chiếm 29%, đây sẽ là gánh nặng đối với công ty, quá cao so với tỷ suất lợi nhuận thông thường. – Vốn chủ sở hữu và tổng tài sản giảm. Tổng tài sản của công ty giảm 24,6% trong 9 tháng, chỉ còn 670 nghìn tỷ đồng.

Đồng thời, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh cũng dẫn đến thâm hụt tổng vốn chủ sở hữu, giảm từ 336,5 nghìn tỷ đồng cuối năm 2011 xuống còn 282 nghìn tỷ đồng vào cuối quý III.

— Rút / giảm hoạt động đầu tư. Dòng tiền âm là lần đầu tiên. Khi dòng tiền hoạt động đầu tư âm 18 nghìn tỷ đồng trong 9 tháng, hoạt động đầu tư phục hồi / giảm đáng kể.

Lần đầu tiên trong vòng 5 năm qua, dòng tiền tài chính âm 14,2 nghìn tỷ đồng. Có thể thấy, trong năm nay, công ty không / không thể tăng cho vay hoặc phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn.

Điều này trái ngược hẳn với hoạt động đầu tiên trong giai đoạn 2007-2011. Quảng cáo và tài trợ mạnh mẽNguồn tài chính chủ yếu đến từ hàng tồn kho tài chính (cho vay, phát hành cổ phiếu). Đồ thị thống kê ROAA và ROEA (tính theo số dư vốn chủ sở hữu bình quân) cho thấy sau những cải tiến trong năm 2009 và 2010, hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của công ty đã giảm xuống đáng kể. – Cần phải nhấn mạnh rằng mặc dù quy mô vốn và giá trị tài sản giảm mạnh trong 9 tháng nhưng hiệu quả kinh doanh của công ty vẫn chưa thể cải thiện.

Tính toán của Vietstock cũng cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ròng và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ròng bình quân hàng quý chỉ lần lượt là 3,2% và 1,26% so với mức 3,7% và 1,42% năm 2011.

Theo Vietsotck