Năm tháng sau khi phát hành phiên bản vi ba phần tư đầu tiên E-P1, Olympus đã phát hành E-P2 với một số cải tiến nhỏ và dự kiến ​​sẽ thay thế E-P1 khi nó được phát hành lần đầu. Trước hết.

Olympus E-P2. Ảnh: Cnet.Một trong những cải tiến mới có thể thấy ngay là EVF độ phân giải cao mới tương tự như EVF của Panasonic Lumix DMC-GH1. VF-2 EVF này được kết nối với máy ảnh thông qua một khe nhỏ dưới bóng, với độ phân giải 1,44 triệu điểm ảnh, và chỉ có 230.000 điểm ảnh trên kính ngắm GH1. -Mặc dù cùng một tập đoàn đang phát triển định dạng “mini 3/4”, vẫn là kiểu thiết kế EVF giống nhau, nhưng kỳ lạ là EVF của hai hãng dường như được thiết kế có chủ đích để có các đầu nối khác nhau. Vì vậy, chúng không phải là mới. Khung EVF có chất lượng tốt và khung ngắm rộng, tuy độ chính xác màu không hoàn hảo nhưng được cập nhật rất nhanh, so với màn hình LCD của máy ảnh thì cho tông màu ấm hơn.

Cần lưu ý rằng mặc dù người chụp cần tiết kiệm pin khi sử dụng kính ngắm, chất lượng tiêu thụ của VF-2 trong quá trình thử nghiệm cao hơn chất lượng tiêu thụ của màn hình LCD phía sau máy. Khi kết nối kính ngắm, thời lượng pin chỉ có thể chụp 180 bức ảnh so với 270 loại pin khi chụp bằng màn hình LCD.

Hai bộ lọc hiệu ứng nghệ thuật mới được Olympus E-P2 ra mắt là Diorama và Cross Process. Hiệu ứng diorama mô phỏng một hình ảnh, giống như chụp một hình ảnh với ống kính nghiêng tập trung vào một khu vực nhỏ, tất cả đều bị xóa, trong khi hiệu ứng vẽ chéo mô phỏng sự thay đổi màu sắc sau khi phim dương bản bị rửa trôi nhưng bị rửa bởi các hóa chất khác, dẫn đến Thay đổi màu sắc khác nhau. Hai hình ảnh dưới đây là ví dụ về hai bộ lọc mới trên phiên bản E-P2.

Không chỉ phù hợp với ảnh tĩnh mà bạn có thể áp dụng các hiệu ứng này khi quay video. Tuy nhiên, khi áp dụng hiệu ứng Diorama, tốc độ khung hình sẽ bị giảm đi rất nhiều, tạo ra cảnh phim quay chậm, âm thanh sẽ bị triệt tiêu, và nếu sử dụng hiệu ứng xử lý chéo để quay thì hình ảnh sẽ mượt mà hơn và âm thanh được giữ nguyên. Xem video được quay bởi E-P2 với các hiệu ứng xử lý chéo.9; i, E-P2 cũng có chức năng nâng cao i-Enhance trong chế độ tự động thông minh i-Auto. Chức năng này có thể tự động điều chỉnh màu sắc theo cảnh để tạo ra hình ảnh có màu sắc tốt nhất và i-Auto sẽ phân tích hình ảnh để tìm ra cài đặt phơi sáng tốt nhất. Trong thử nghiệm của chúng tôi, tính năng mới này kết hợp hoàn hảo các tông màu phong phú, phù hợp với những người thích tỏa sáng.

Ngoài hai chức năng bổ sung, E-P2 còn có một chế độ nâng cao. E-P1 đầu tiên về cơ bản là không tập trung. So với GH1 của đối thủ cạnh tranh, chức năng này hoạt động tốt, nhưng nó có xu hướng chậm hơn. Khi đối tượng di chuyển trong khung hình, quá trình lấy nét luôn chậm và không đủ chính xác. P1 trước đây là hàng chính hãng nhưng nó đã được tung ra thị trường không lâu sau khi phiên bản đầu tiên ra mắt, khiến nhiều người ủng hộ Micro-E-P1 thất vọng. Ngoài ra, phiên bản E-P2 còn có thể quay video độ nét cao thông qua sự hỗ trợ âm thanh của micrô bên ngoài SEMA-1.

Tuy nhiên, trong trường hợp có những cải tiến nhỏ, điều này chủ yếu là do thiếu một số chức năng hơn là do cải tiến hoạt động. Với 300 đô la Mỹ, không cần nâng cấp lên E-P2. Mặc dù được bổ sung kính ngắm điện tử độ phân giải cao nhưng E-P2 vẫn thua GH1 của Panasonic về tốc độ lấy nét. Do đó, E-P2 có thể phù hợp với những người hâm mộ mới muốn trải nghiệm định dạng Micro Three Threes thay vì những người hỗ trợ truyền thống.

Đánh giá sản phẩm

Nguyễn Hà